X
XLinkedinWhatsAppTelegramTelegram
0
3
Sử dụng công cụ này để chẩn đoán các vấn đề liên quan đến tỷ lệ chuyển hóa thức ăn. Bấm vào sơ đồ hoặc các nút trong văn bản để định hướng qua các phần khác của công cụ.
Đọc bài báo này bằng:

Tỷ lệ chuyển hóa thức ăn và tăng trưởng tệ hơn nhưng tỷ lệ tử vong ổn định

Điều gì có thể làm tăng tỷ lệ chuyển hóa thức ăn và làm giảm tăng trọng bình quân ngày mà không làm thay đổi tỷ lệ tử vong?

Công cụ này được sử dụng để khắc phục các vấn đề liên quan đến tỷ lệ chuyển hóa thức ăn (FCR) và được thiết kế để phát hiện tất cả các nguyên nhân có thể làm tăng FCR ở trang trại của chúng ta. Ở cuối bài viết, bạn sẽ tìm thấy một sơ đồ sẽ cho phép bạn định hướng trong toàn bộ công cụ.

Cho đến nay, chúng tôi đã chia các nguyên nhân ảnh hưởng đến FCR thành hai nhóm chính, những nguyên nhân làm tăng tỷ lệ tử vong và những nguyên nhân không làm tăng tỷ lệ tử vong. Lần lượt, chúng tôi đã chia những nguyên nhân không làm tăng tỷ lệ tử vong thành hai loại đó là những nguyên nhân không ảnh hưởng đến mức tăng trọng bình quân ngày (ADG) và có ảnh hưởng đến ADG. Dưới đây là các nguyên nhân làm thay đổi FCR mà không ảnh hưởng đến tỷ lệ tử vong nhưng ảnh hưởng đến ADG:

Lạnh. Khi cái lạnh trở nên khắc nghiệt hơn, lượng tiêu thụ tối đa sẽ không đủ để bù đắp cho sự gia tăng chuyển hóa cơ bản cần thiết để duy trì nhiệt độ và sự tăng trưởng của cơ thể.

Ảnh 1. Heo con bị lạnh.
Ảnh 1. Heo con bị lạnh.

Nhiệt. Với sức nóng, tất cả các cơ chế bù trừ được kích hoạt để cố gắng duy trì nhiệt độ cơ thể không đổi. Một mặt, lượng ăn vào giảm do việc tiêu thụ thức ăn tạo ra nhiệt; mặt khác, mức tăng trọng hàng ngày bị giảm đi, vì thực tế đơn giản là việc tăng trưởng cũng tạo ra nhiệt. Bất kỳ việc chuyển hóa năng lượng nào cũng tạo ra nhiệt.

Không đủ protein hoặc một số axit amin. Sự mất cân đối hoặc thiếu hụt protein sẽ không cho phép đạt được sự tăng trưởng tối đa và lượng protein còn lại sẽ được sử dụng làm năng lượng nhưng hiệu suất sử dụng thấp hơn (60%) nên chuyển hóa thức ăn sẽ kém đi.

Thức ăn rất ít năng lượng. Các khẩu phần rất ít năng lượng sẽ không đáp ứng được các yêu cầu tăng trưởng tối đa ngay cả khi đạt được lượng ăn vào nhiều nhất có thể. Một phần protein trong thức ăn sẽ được dành cho năng lượng để bù đắp sự thiếu hụt, ảnh hưởng gấp đôi đến tỷ lệ chuyển hóa thức ăn.

Hạn chế thức ăn nghiêm trọng

  • Thiếu không gian cho máng ăn
  • Thiếu nước (nhất là vào mùa nắng nóng)
  • Mật độ chăn nuôi tăng cao
  • Thiết kế chuồng không phù hợp
  • Thời gian nhịn ăn lặp đi lặp lại trong giai đoạn xuất chuồng (máng ăn không đủ dung tích hoặc không thêm thức ăn đủ số lần).
  • Độc tố trong chế độ ăn uống làm giảm lượng ăn vào hàng ngày, ví dụ: mycotoxin.
  • Các thành phần thức ăn ảnh hưởng đến độ ngon miệng của thức ăn, làm giảm lượng thức ăn ăn vào tự nguyện.

Thiếu thông gió. Thông gió quá thấp có thể dẫn đến nồng độ oxy dưới mức cần thiết để duy trì sự tăng trưởng. Oxy trong không khí thường được đo gián tiếp bằng cách đo nồng độ CO2. Nồng độ CO2 trên 2.500 ppm có thể dẫn đến tốc độ tăng trưởng thấp hơn và tỷ lệ chuyển hóa thức ăn cao hơn.

Bệnh tật. Đặc biệt là các bệnh có ảnh hưởng mãn tính, nghĩa là bệnh diễn ra trong thời gian dài nhưng không gây tử vong. Ví dụ: viêm phổi địa phương, viêm teo mũi truyền nhiễm hoặc viêm hồi tràng. Trong các trường hợp viêm hồi tràng cận lâm sàng, tốc độ tăng trưởng giảm từ 9 đến 42% và giảm tỷ lệ chuyển hóa thức ăn từ 6 đến 42% đã được mô tả (Collins AM, 2013). Trong trường hợp viêm phổi địa phương, tỷ lệ chuyển hóa thức ăn tăng 0,5 điểm và giảm mức tăng trọng bình quân ngày lên tới 157 g/ngày đã được mô tả (Straw B, 1989) tùy thuộc vào tổn thương phổi gây ra. Trong trường hợp các quá trình bệnh khác, chẳng hạn như bệnh kiết lỵ xuất huyết, việc giảm lượng thức ăn ăn vào hàng ngày (hậu quả của đau bụng) sẽ thực sự ảnh hưởng đến sự tăng trưởng và chuyển hóa thức ăn. Dịch bệnh tiêu chảy ở heo giai đoạn xuất chuồng sẽ ảnh hưởng đến cả tăng trưởng và chuyển hóa thức ăn, nhất là những trường hợp xuất hiện sớm; tuy nhiên, căn bệnh này không được đặc trưng bởi tỷ lệ tử vong.

Sử dụng sơ đồ để tiếp tục nghiên cứu hoặc để truy cập các phần khác của công cụ.

Bình luận bài báo

Mục đích của phần này không phải để kham khảo ý tác giả về bài báo mà là nơi thảo luận cởi mở giữa những người dùng 333.
Để lại một bình luận mới

Quyền truy cập chỉ dành cho người dùng 333. Để bình luận bạn cần đăng nhập.

Bạn chưa đăng ký vào danh sách nhận Tin tức ngành heo

Tin tức ngành heo tới email của bạn

Đăng nhập và đăng ký vào danh sách

Bài báo liên quan

Hình 1. Tỷ lệ(%) heo nái chết, trước hoặc sau khi đẻ, trong tổng số 7.778 heo nái đã được phối cộng với 7.745 heo nái đã đẻ. Nguồn: Tami S. và cs, 2017.

Tỷ lệ chết trên heo nái: Khi nào và ở đâu? (2/2)

Để giảm thiểu tỷ lệ chết, điều cần thiết là phải chẩn đoán được các nguyên nhân. Để làm được điều đó, chúng ta phải trả lời bốn câu hỏi cơ bản: heo nái chết như thế nào, loại heo nái nào bị ảnh hưởng, xảy ra vào thời điểm nào và xảy ra ở đâu? Trong bài viết này, chúng ta sẽ giải quyết hai câu hỏi cuối cùng.

Hình 1. Tỷ lệ chết theo lứa đẻ tại một trang trại (%) có vấn đề heo nái chết do què chân.

Tỷ lệ chết trên heo nái: Diễn ra như thế nào và xảy ra trên loại heo nái nào? (1/2)

Để giảm thiểu tỷ lệ chết, điều cần thiết là phải chẩn đoán được các nguyên nhân. Để làm được điều đó, chúng ta phải trả lời bốn câu hỏi cơ bản: heo nái chết như thế nào, loại heo nái nào bị ảnh hưởng, xảy ra vào thời điểm nào và xảy ra ở đâu? Trong bài viết này, chúng ta sẽ giải quyết hai câu hỏi đầu tiên.

Bạn chưa đăng ký vào danh sách nhận 333 trong 3 phút

Bản tin tuần với tất cả các cập nhật trên 3tres3.com

Đăng nhập và đăng ký vào danh sách